KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
|
QUY ĐỊNH CHUẨN MỰC KIỂM
TOÁN NHÀ NƯỚC SỐ 100
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
(Ban hành kèm theo Quyết định số 02/2016/QĐ-KTNN
ngày 15 tháng
7 năm 2016 của Tổng Kiểm
toán nhà nước)
![]() |
QUY ĐỊNH CHUNG
Cơ sở xây dựng
01. Chuẩn mực này được xây dựng và phát triển dựa trên cơ sở Luật Kiểm toán nhà nước và ISSAI 100 của INTOSAI - Các nguyên
tắc cơ bản của kiểm toán lĩnh vực công.
Mục đích và phạm vi áp dụng
02.
Chuẩn mực này quy định các nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đối với tất cả các cuộc kiểm
toán và tất cả các loại hình kiểm toán.
03.
Các nguyên tắc cơ bản của Chuẩn mực này được phát triển thành các nguyên tắc cơ bản của kiểm
toán tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ (CMKTNN 200,
300 và 400) và các hướng dẫn thực hành (CMKTNN cấp độ 4) để áp dụng trong quá
trình kiểm toán.
04.
Kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ các quy định và hướng
dẫn của Chuẩn mực này trong quá trình thực hiện kiểm toán. Đơn vị được kiểm
toán,
các bên có liên quan và các bên sử dụng kết quả kiểm toán phải có những hiểu
biết cần thiết về các quy định và hướng dẫn của Chuẩn mực này để phối hợp công
việc với kiểm toán viên nhà nước và giải quyết các mối
quan hệ trong quá trình kiểm toán.
Nguyên tắc sử dụng thuật ngữ
05.
Các thuật ngữ sử
dụng trong chuẩn mực này được định nghĩa như trong các chuẩn mực
kiểm toán do Kiểm toán nhà nước ban hành.
06. Chuẩn mực này bao gồm các nội dung sau: Các quy định chung về kiểm toán
lĩnh vực công; Các yếu tố của kiểm toán lĩnh vực công; Các nguyên tắc cơ bản
của kiểm toán lĩnh vực công.
Các quy định chung về kiểm toán lĩnh vực công
Thẩm quyền
07.
Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán lĩnh vực công theo
quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, pháp luật và trong phạm vi thẩm quyền cho phép, đảm bảo sự độc
lập, khách quan trong thực hiện nhiệm vụ.
Thẩm quyền
của Kiểm toán nhà nước xác định trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm toán nhà
nước trong kiểm toán lĩnh vực công và quy định cụ thể về nhiệm vụ kiểm toán và
các công việc khác mà Kiểm toán nhà nước phải thực hiện.
08. Kiểm toán nhà nước đưa ra các quyết định để đáp ứng các yêu cầu trong thực
hiện trách nhiệm, quyền hạn, nhiệm vụ và các yêu cầu luật định khác như: lựa chọn
chuẩn mực kiểm toán áp dụng, lựa chọn công việc sẽ tiến hành và xác
định thứ tự ưu tiên.
Kiểm toán lĩnh vực công và các mục tiêu kiểm toán
09.
Môi trường kiểm toán lĩnh vực công liên quan đến hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản
công. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân này chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng
tài chính, tài sản công trước các tổ chức, cá nhân cung cấp các nguồn công quỹ
đó và trước công chúng. Kiểm toán lĩnh vực công nhằm đạt được mục tiêu là các
cơ quan, tổ chức, cá nhân và cán bộ, nhân viên của các cơ quan, tổ chức này thực
hiện chức năng nhiệm vụ trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản
công đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực, có đạo đức, tuân thủ pháp luật
và các quy định hiện hành.
10.
Về tổng quan, kiểm toán lĩnh vực công là quá trình thu thập
và đánh giá bằng chứng một cách khách quan, có hệ thống để xác định việc tuân
thủ theo các tiêu chí đã được xác lập của các thông tin hoặc các điều kiện thực
tế. Kiểm toán lĩnh vực công là cần thiết vì cung cấp cho các cơ quan lập pháp,
cơ quan giám sát, những người chịu trách nhiệm điều hành và công chúng các
thông tin và những đánh giá độc lập, khách quan về việc thực hiện các chính
sách, chương trình và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý và sử
dụng tài chính công, tài sản công.
11.
Kiểm toán lĩnh vực công góp phần quan trọng trong việc nâng
cao công tác quản trị lĩnh vực công với việc nhấn mạnh các nguyên tắc về minh bạch,
trách nhiệm giải trình, quản trị và điều hành.
12.
Kiểm toán lĩnh vực công bắt đầu từ việc xác định các mục
tiêu kiểm toán và các mục tiêu này có thể khác nhau phụ thuộc vào loại hình kiểm
toán. Tất cả các cuộc kiểm toán lĩnh vực công nhằm nâng cao chất lượng quản
lý tài chính, tài sản công thông qua việc:
(i)
Cung cấp cho đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán các
thông tin, kết luận, ý kiến kiểm toán độc lập, khách quan, đáng tin cậy và có đầy
đủ bằng chứng thích hợp liên quan;
(ii)
Nâng cao trách nhiệm giải trình và sự minh bạch, khuyến
khích cải tiến liên tục và củng cố niềm tin vào việc sử dụng hợp lý tài chính
công, tài sản công và việc quản trị công;
(iii)
Nâng cao hiệu lực của các cơ quan có chức năng giám sát
và các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động có sử dụng công
quỹ;
(iv)
Tạo ra các động lực cải tiến thông qua các kết quả và kiến
nghị kiểm toán.
13. Các cuộc kiểm toán lĩnh vực công thường được phân thành ba loại hình chính:
kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Mục tiêu của mỗi
cuộc kiểm toán sẽ xác định các chuẩn mực kiểm toán nhà nước nào được áp dụng.
Các loại hình kiểm toán lĩnh vực công
14. Ba loại hình chính trong kiểm toán lĩnh vực công:
(i)
Kiểm toán tài chính là việc kiểm toán để đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính hoặc
các thông tin tài chính của đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán tài chính tập
trung vào việc xác định xem báo cáo tài chính hoặc thông tin tài chính của đơn
vị có được trình bày phù hợp với khuôn khổ quy định về lập và trình bày báo cáo
tài chính và các quy định hiện hành khác có liên quan không. Điều này đạt được
thông qua việc thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp cho phép kiểm
toán viên nhà nước đưa ra ý kiến về việc thông tin tài chính, xét trên các
khía cạnh trọng yếu có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không.
(ii)
Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán để đánh giá tính kinh tế, hiệu
quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công.
Kiểm toán hoạt động tập trung vào việc xem xét các chương trình, các hoạt động,
các đơn vị hoặc các nguồn công quỹ và các thể chế có vận hành theo các nguyên tắc
về tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực không và có cần cải tiến không. Kiểm
toán viên nhà nước đối chiếu kết quả thực hiện của các chương trình, các hoạt động,
các đơn vị hoặc các nguồn công quỹ và các thể chế với các tiêu chí phù hợp;
phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch so với các tiêu chí đó cũng như
các vấn đề khác để đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và đưa ra kiến nghị
để cải thiện tình hình.
(iii)
Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm toán để đánh giá và xác
nhận việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn
vị được kiểm toán phải thực hiện. Kiểm toán tuân thủ được
thực
hiện bằng việc đánh giá sự tuân thủ của các hoạt động, giao dịch và
thông tin, xét trên các khía cạnh trọng yếu theo các quy định
áp dụng đối với đơn vị được kiểm toán. Các quy
định đó được xác định là các tiêu chí kiểm toán, như: các luật, các
văn bản hướng dẫn luật, các quy định, quy chế, chế độ, chính sách mà đơn vị được
kiểm toán phải thực hiện. Khi các
luật và quy định không đầy đủ hoặc chưa có văn bản hướng dẫn, kiểm
toán tuân thủ có thể kiểm tra sự tuân thủ theo các nguyên tắc chung
về quản trị tài chính lành mạnh và ứng xử của công chức, viên
chức.
15. Kiểm toán nhà nước có thể thực hiện riêng rẽ từng loại hình kiểm toán hoặc
kết hợp các loại hình kiểm toán trên.
Các yếu tố của kiểm toán lĩnh vực công
16.
Các yếu tố cơ bản của kiểm toán lĩnh
vực công bao gồm: Kiểm toán nhà nước, Đối tượng chịu trách nhiệm, Đối tượng
sử dụng báo cáo kiểm toán (ba bên liên quan đến cuộc kiểm toán); Nội dung kiểm
toán và các thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán, tiêu chí kiểm toán;
Các dạng công việc kiểm toán.
Ba bên liên quan
17. Các cuộc kiểm toán lĩnh vực công có liên quan đến ít nhất ba bên khác nhau:
Kiểm toán nhà nước, Đối tượng chịu trách nhiệm và Đối tượng sử dụng báo cáo
kiểm toán. Mối quan hệ giữa các bên được quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán
nhà nước và các văn bản pháp luật có liên quan.
(i)
Kiểm toán nhà nước: Kiểm toán nhà nước là cơ quan
do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện
kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Trách nhiệm của Kiểm toán nhà nước và kiểm toán viên nhà nước được quy định trong Luật Kiểm toán nhà nước, các
văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định
của Kiểm toán nhà nước. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên nhà
nước chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Trưởng đoàn kiểm toán, Tổ trưởng
Tổ kiểm toán.
(ii)
Đối tượng chịu trách nhiệm: Là các đơn vị được
kiểm toán; các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về các vấn đề liên
quan đến đơn vị được kiểm toán, chịu trách nhiệm quản lý đơn vị được kiểm toán
hay chịu trách nhiệm thực thi các kiến nghị liên quan. Trách nhiệm của các đối
tượng này được quy định trong Hiến pháp, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản
pháp luật khác.
(iii)
Đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán: Là các cơ quan, tổ
chức, cá nhân sử dụng báo cáo kiểm toán theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật về kiểm toán nhà nước.
Nội dung kiểm toán và
các thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán, tiêu chí kiểm toán
18. Nội dung kiểm toán là các thông tin, tình hình hay các hoạt động được đo lường
hoặc đánh giá bằng các tiêu chí nhất định. Nội dung kiểm toán có thể có nhiều
loại và có đặc điểm khác nhau phụ thuộc vào mục tiêu kiểm toán. Một nội dung kiểm
toán phù hợp phải đảm bảo rõ ràng và có thể đánh giá, đo lường được bằng các
tiêu chí, có thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa ra ý kiến
hoặc kết luận kiểm toán.
Nội dung kiểm toán và các
thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán đối với ba loại hình kiểm toán như
sau:
(i)
Kiểm toán tài chính: Nội dung kiểm toán của một cuộc
kiểm toán tài chính là các thông tin tài chính, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, tình hình tài chính, hoạt động tài chính, dòng tiền và các thuyết
minh hay các yếu tố khác đã được phản ánh, đo lường và trình bày trong các báo
cáo tài chính. Thông tin liên quan đến nội dung kiểm toán có thể là các báo
cáo tài chính, các sổ kế toán, chứng từ kế toán...
(ii)
Kiểm toán hoạt động: Nội dung kiểm toán của một cuộc
kiểm toán hoạt động được xác định theo các mục tiêu kiểm toán và các vấn đề cần
kiểm toán. Nội dung kiểm toán có thể là các chương trình, các hoạt động, các
đơn vị hoặc các nguồn công quỹ cụ thể (có kết quả đầu ra, tác động và ảnh hưởng),
tình hình hiện tại (bao gồm nguyên nhân và hậu quả). Các thông tin liên quan đến
nội dung kiểm toán hoạt động có thể là các thông tin tài chính hoặc phi tài
chính. Kiểm toán viên nhà nước tiến hành đo lường hay đánh giá các nội dung kiểm
toán để xem xét mức độ đạt được hay không đạt được theo các tiêu chí đã được
xác lập.
(iii)
Kiểm toán tuân thủ: Nội dung kiểm toán của một cuộc
kiểm toán tuân thủ được xác định theo phạm vi kiểm toán, đó là các hoạt động,
các nghiệp vụ, các giao dịch hay các thông tin tài chính có liên quan.
19. Tiêu chí kiểm toán là các tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá nội dung kiểm
toán. Mỗi cuộc kiểm toán cần có các tiêu chí kiểm toán phù hợp. Để xác định sự
phù hợp của tiêu chí kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước cần xem xét các tiêu
chí đó có liên quan đến nội dung kiểm toán không, đối tượng sử dụng báo cáo kiểm
toán có hiểu được tiêu chí kiểm toán đó không. Kiểm toán viên nhà nước cũng cần
xem xét các yếu tố khác như sự đầy đủ, tin cậy, khách quan, được chấp nhận rộng
rãi và có thể so sánh được. Tiêu chí kiểm toán sử dụng phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó có các mục tiêu kiểm toán và loại hình kiểm toán. Tiêu chí kiểm
toán có thể cụ thể hoặc có tính tổng hợp, có thể hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau như các văn bản luật, các quy định, các chuẩn mực, các nguyên tắc phổ biến
và các thực hành tốt. Thông tin về các tiêu chí kiểm toán cần được cung cấp
cho đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán để giúp họ hiểu được cách thức nội dung
kiểm toán được đánh giá hay đo lường.
20. Có hai dạng công việc trong kiểm toán lĩnh vực công: Kiểm tra xác nhận và
kiểm tra đánh giá.
(i)
Đối với dạng công việc kiểm tra xác nhận, đơn vị được
kiểm toán tiến hành đo lường các nội dung so với các tiêu chí và trình bày
thông tin, kết quả về các vấn đề liên quan. Kiểm toán viên nhà nước thu thập
đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm căn cứ hợp lý để đưa ra kết luận kiểm
toán. Kết quả kiểm toán được trình bày trong báo cáo kiểm toán dưới
dạng xác nhận mức độ phù hợp của nội dung, thông tin, số liệu được
kiểm toán so với các tiêu chí.
(ii)
Đối với dạng công việc kiểm tra đánh giá, kiểm toán viên nhà nước tiến hành đo lường hoặc đánh giá nội dung kiểm
toán so với tiêu chí kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước lựa chọn nội dung và
tiêu chí kiểm toán trên cơ sở xem xét rủi ro và trọng yếu kiểm toán. Kết quả đo
lường, đánh giá các nội dung kiểm toán so với tiêu chí được trình bày trong báo
cáo kiểm toán dưới các hình thức như phát hiện, kết luận, kiến nghị hay ý kiến
kiểm toán. Kết quả kiểm toán cũng có thể cung cấp các thông tin, vấn đề, các
phân tích mới.
21. Các cuộc kiểm toán tài chính luôn là dạng công việc kiểm tra xác nhận, vì
chúng dựa vào các thông tin tài chính do đối tượng chịu trách nhiệm trình bày.
Các cuộc kiểm toán hoạt động thông thường là dạng công việc kiểm tra đánh
giá. Các cuộc kiểm toán tuân thủ có thể là kiểm tra xác nhận hoặc kiểm tra
đánh giá, hoặc có thể đồng thời cả hai dạng công việc này.
Sự tin cậy và đảm bảo trong kiểm toán lĩnh vực công
Yêu cầu về sự tin cậy và đảm bảo
22. Đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán luôn mong muốn có thể tin tưởng vào các
thông tin mà họ sẽ sử dụng. Vì vậy các cuộc kiểm toán phải cung cấp thông tin dựa
trên bằng chứng đầy đủ và thích hợp đã thu thập được và kiểm toán viên nhà nước
phải thực hiện các thủ tục để giảm thiểu và quản lý rủi
ro đưa ra các kết luận kiểm toán không phù hợp. Sự đảm bảo của các thông tin
cung cấp phải được thể hiện rõ ràng, minh bạch. Tuy nhiên, do các cuộc kiểm toán đều có hạn chế nhất định nên một cuộc kiểm toán có thể không bao giờ cung cấp được sự đảm bảo tuyệt
đối.
Các hình thức thông tin về sự đảm bảo
23. Tùy thuộc vào từng cuộc kiểm toán và yêu cầu của đối tượng sử dụng báo cáo
kiểm toán, sự đảm bảo có thể được trình bày theo hai cách sau:
(i)
Thông qua các ý kiến và kết luận kiểm toán để trình bày
sự đảm bảo. Dạng trình bày này được áp dụng cho tất cả các cuộc kiểm
toán với công việc là kiểm tra xác nhận và được áp dụng trong một số trường
hợp kiểm toán với công việc là kiểm tra đánh giá.
(ii)
Theo các hình thức khác: Đối với một số trường hợp công
việc là kiểm tra đánh giá, kiểm toán viên nhà nước không đưa ra một thông
tin rõ ràng về sự đảm bảo đối với nội dung kiểm toán. Trong các trường hợp
này, kiểm toán viên nhà nước cung cấp cho đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán
mức độ tin cậy cần thiết thông qua việc giải thích cách thức hình thành các
phát hiện, tiêu chí và kết luận kiểm toán và giải thích rõ việc xem xét tổng thể
các phát hiện và tiêu chí kiểm toán để đưa ra một kết luận hoặc kiến nghị kiểm
toán.
Các mức độ đảm bảo
24. Sự đảm bảo có thể là hợp lý hoặc hạn chế.
(i)
Đảm bảo hợp lý: Sự đảm bảo hợp lý là cao nhưng không phải tuyệt đối. Kết
luận kiểm toán được trình bày theo hướng khẳng định rõ ràng như: “Theo ý kiến của kiểm toán viên nhà nước, xét trên các khía cạnh
trọng yếu, nội dung kiểm toán tuân thủ hoặc
không tuân thủ với các tiêu chí kiểm toán”, hoặc “Theo ý kiến của kiểm toán viên nhà nước, xét trên các khía cạnh
trọng yếu, các thông tin về nội dung kiểm toán là đúng đắn, trung thực, hợp lý
và phù hợp với các quy định được áp dụng”…
(ii)
Đảm bảo hạn chế: Trong trường hợp cung cấp sự đảm bảo hạn chế, kết luận
kiểm toán đề cập như sau: “Theo ý kiến của
kiểm toán viên nhà nước không có yếu tố nào để kiểm toán viên nhà nước cho rằng nội dung kiểm toán không tuân thủ với
các tiêu chí được áp dụng”. Các thủ tục kiểm toán được thực hiện trong một cuộc kiểm toán có sự đảm
bảo hạn chế thường có giới hạn hơn so với các thủ tục cần thực hiện để đạt được
sự đảm bảo hợp lý. Tuy nhiên, theo xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên nhà
nước, sự đảm bảo hạn chế có giá trị nhất định đối với đối tượng sử dụng báo
cáo kiểm toán.
Các nguyên tắc cơ bản
của kiểm toán lĩnh vực công
25. Các nguyên tắc được cụ thể hóa dưới đây là những nguyên tắc cơ bản để thực
hiện một cuộc kiểm toán. Để dễ hiểu, các nguyên tắc cơ bản được trình
bày như sau:
(i)
Yêu cầu đối với Kiểm toán nhà nước;
(ii)
Các nguyên tắc chung là các nguyên tắc mà kiểm toán viên
nhà nước cần xem xét trước khi bắt đầu cuộc kiểm toán và tại một số thời điểm
trong cuộc kiểm toán;
(iii)
Các nguyên tắc liên quan đến quá trình kiểm toán.
Các lĩnh vực được điều chỉnh bởi các nguyên tắc kiểm toán lĩnh vực công
26. Kiểm toán nhà nước phải thiết lập và duy trì các quy định phù hợp về đạo
đức và kiểm soát chất lượng kiểm toán
Kiểm toán nhà nước phải thiết lập và duy trì các
quy định về đạo đức nghề nghiệp và kiểm soát chất lượng kiểm toán để đảm bảo
hợp lý rằng Kiểm toán nhà nước và công chức, kiểm toán viên nhà nước tuân theo
các chuẩn mực nghề nghiệp và các yêu cầu về mặt pháp lý và đạo đức hiện hành theo
quy định tại CMKTNN 30 - Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và CMKTNN 40 -
Kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Các nguyên tắc chung
Đạo đức nghề
nghiệp và tính độc lập
27.
Kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp
và đảm bảo tính độc lập
Các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp cần được thể hiện
thông qua hành vi ứng xử chuyên nghiệp của kiểm toán viên nhà nước. Kiểm toán nhà nước
xây dựng các quy tắc đạo đức và nhấn mạnh sự cần
thiết mỗi kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ các quy tắc đó. Kiểm toán
viên nhà nước phải giữ tính độc lập sao cho báo cáo kiểm toán có tính khách
quan và được nhìn nhận là khách quan bởi đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán.
Kiểm toán viên nhà nước cần hiểu
được các nội dung về tính độc lập trong Tuyên bố Mexico về tính độc lập
của các cơ quan Kiểm toán Tối cao vào năm 2007. Các nguyên tắc chính về
đạo đức nghề nghiệp gồm: Liêm chính, độc lập và khách quan, trình độ,
năng lực và kỹ năng chuyên môn, thận trọng nghề nghiệp và bảo mật theo
quy định tại CMKTNN 30 - Bộ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Xét đoán chuyên môn, thận trọng và thái độ hoài nghi nghề
nghiệp
28. Kiểm toán viên nhà nước phải có
hành vi ứng xử chuyên nghiệp thông qua xét đoán chuyên môn, thận trọng và
thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong suốt cuộc kiểm toán
Hành vi ứng xử của kiểm toán viên nhà
nước cần được thể hiện thông qua xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề
nghiệp khi đưa ra các quyết định. Kiểm toán viên nhà nước cần thận trọng để đảm
bảo hành vi của mình là thích hợp.
Xét đoán chuyên môn là sự vận dụng
các kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm phù hợp về tài chính, kế
toán, kiểm toán, chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp
để đưa ra các quyết định về các hành động phù hợp trong hoàn cảnh
cụ thể của cuộc kiểm toán.
Thận trọng là việc kiểm toán viên nhà nước thực hiện
các công việc một cách kỹ lưỡng, cẩn thận. Kiểm toán viên nhà nước cần tránh
có bất cứ hành vi nào có thể gây mất tín nhiệm cho công việc của mình.
Thái độ hoài nghi nghề nghiệp là
thái độ luôn nghi vấn, cảnh giác đối với tình huống cụ thể có thể
là dấu hiệu của sai sót do nhầm lẫn hay do gian lận và đánh giá cẩn
trọng đối với các bằng chứng kiểm toán. Đồng thời kiểm toán viên nhà
nước cũng cần giữ thái độ cởi mở và sẵn sàng tiếp nhận với các quan điểm, kể
cả các quan điểm trái ngược.
Kiểm soát chất lượng kiểm toán
29. Kiểm toán viên nhà nước phải tiến
hành kiểm toán theo các chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm soát chất lượng kiểm
toán của Kiểm toán nhà nước
Chính sách và thủ tục kiểm soát chất
lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước phải tuân theo các chuẩn mực nghề
nghiệp với mục đích đảm bảo chất lượng kiểm toán, hạn chế rủi ro kiểm toán và các
cuộc kiểm toán đều được thực hiện nhất quán cao. Chính sách và thủ tục
kiểm soát chất lượng kiểm toán bao gồm các vấn đề như sự chỉ đạo, đánh
giá và giám sát của quá trình kiểm toán và nhu cầu cần tham vấn để đạt được các
quyết định về các vấn đề phức tạp hoặc chưa thống nhất theo
quy định tại CMKTNN 40 - Kiểm soát chất lượng
kiểm toán.
Các kỹ năng cần thiết và việc
sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của đối tượng khác
30. Kiểm toán viên nhà nước phải có
kỹ năng cần thiết hoặc có khả năng tiếp cận với những kỹ năng cần thiết để
hoàn thành cuộc kiểm toán
Các kỹ năng này bao gồm: sự hiểu biết và kinh nghiệm thực
tiễn về loại hình kiểm toán đang tiến hành, thông thạo các chuẩn mực và quy định
hiện hành, hiểu biết về hoạt động của đơn vị và khả năng, kinh nghiệm xét đoán
chuyên môn. Để giúp kiểm toán viên nhà nước có được những kỹ năng
cần thiết, Kiểm toán nhà nước cần có các cẩm nang và các văn bản hướng dẫn
liên quan đến thực hiện kiểm toán. Các cuộc kiểm toán cần bố trí nhân sự có
chuyên môn phù hợp, tạo cơ hội cho họ phát triển và đào tạo. Kiểm toán viên nhà
nước cần duy trì năng lực chuyên môn thông qua việc phát triển nghề nghiệp liên
tục.
Khi cần thiết kiểm toán viên nhà nước
có thể sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các đối tượng khác.
Trong trường hợp này, kiểm toán viên nhà nước cần cung cấp đầy đủ căn cứ về
năng lực và tính độc lập của các đối tượng trên; chất lượng công việc mà họ thực
hiện; và đảm bảo rằng việc thực hiện các công việc này phù hợp với các chuẩn mực
kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, Kiểm toán nhà nước là đối tượng
duy nhất chịu trách nhiệm về bất kỳ ý kiến kiểm toán hay báo cáo kiểm toán do
Kiểm toán nhà nước phát hành; trách nhiệm đó không được giảm do sử dụng kết
quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các đối tượng khác.
Trong trường hợp cuộc kiểm toán đòi hỏi các kỹ thuật,
phương pháp, kỹ năng chuyên ngành mà Kiểm toán nhà nước không có, Kiểm toán nhà
nước có thể sử dụng chuyên gia cung cấp kiến thức hoặc thực hiện một số công
việc cụ thể.
Rủi ro kiểm toán
31.
Kiểm toán viên nhà nước phải
quản lý rủi ro đưa ra một báo cáo kiểm toán không phù hợp với từng
cuộc kiểm toán cụ thể
Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên nhà nước đưa ra ý kiến kiểm toán không
phù hợp khi báo cáo và thông tin đã được kiểm toán còn chứa đựng
sai sót trọng yếu. Kiểm toán viên nhà nước phải thực hiện các thủ tục kiểm
toán để giảm thiểu và quản lý rủi ro đưa ra các kết luận kiểm toán không phù
hợp. Tuy nhiên, trên thực tế tất cả các cuộc kiểm
toán đều có hạn chế nhất định, do đó một cuộc kiểm toán có thể không bao giờ có
sự đảm bảo tuyệt đối đưa ra được toàn bộ tình hình về nội dung được kiểm toán. Khi
cuộc kiểm toán đưa ra sự đảm bảo hợp lý, kiểm toán viên nhà nước
phải giảm thiểu rủi ro kiểm toán xuống mức thấp có thể chấp nhận
được. Trong trường hợp cuộc kiểm toán đưa ra sự đảm bảo hạn chế thì
mức độ rủi ro chấp nhận được lớn hơn so với cuộc kiểm toán đưa ra
sự đảm bảo hợp lý.
Trọng yếu kiểm toán
32. Kiểm toán viên nhà nước phải xem xét trọng yếu trong suốt quá trình kiểm
toán
Trọng yếu có liên quan đến tất cả các
cuộc kiểm toán. Một vấn đề có thể được đánh giá là trọng yếu nếu nó tác động đến
các quyết định của đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán. Xác định trọng yếu là vấn
đề về xét đoán chuyên môn và phụ thuộc vào sự phân tích của kiểm toán viên nhà nước về các yêu cầu của đối tượng sử dụng báo cáo kiểm toán. Sự đánh giá này có
thể liên quan đến một khoản mục riêng lẻ hoặc liên quan đồng thời đến một nhóm
các khoản mục. Trọng yếu thường được xem xét dưới cả hai khía cạnh định lượng
và định tính. Đặc điểm cố hữu của một khoản mục hay nhóm các khoản mục có thể
đưa lại một vấn đề có tính trọng yếu ngay từ bản chất vốn có của nó. Một vấn đề
cũng có thể coi là trọng yếu do đặc điểm tình huống mà nó phát sinh.
Việc xem xét trọng yếu ảnh hưởng đến các
quyết định liên quan đến cách thức, thời gian và phạm vi thực hiện các thủ tục
kiểm toán và đánh giá các kết quả kiểm toán. Các khía cạnh xem xét có thể bao gồm
sự quan tâm của các bên liên quan, sự quan tâm của xã hội, các yêu cầu quy định
và các hậu quả đối với xã hội.
Hồ sơ kiểm toán
33. Kiểm toán viên nhà nước phải lập hồ sơ kiểm toán ở mức độ đủ chi tiết để
cung cấp thông tin rõ ràng về công việc đã thực hiện, bằng chứng đã thu thập và
các kết luận kiểm toán đưa ra
Hồ sơ kiểm toán bao gồm tất cả các
tài liệu do kiểm toán viên nhà nước thu thập, phân loại, sử dụng, các tài liệu
làm việc do kiểm toán viên nhà nước lập trên cơ sở dữ liệu thu thập được và lưu
trữ theo một trật tự nhất định. Các thủ tục kiểm toán đã thực hiện phải được
ghi chép và lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán.
Hồ sơ kiểm toán phải lưu trữ bằng chứng đã thu thập và là căn cứ của kết quả
kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán phải ở mức độ đủ chi tiết để một kiểm toán viên nhà nước
có kinh nghiệm nhưng không có bất kỳ thông tin nào trước
về cuộc kiểm toán có thể hiểu được cách thức, thời gian, phạm vi và kết quả của
các thủ tục kiểm toán đã thực hiện, các bằng chứng kiểm toán đã thu thập làm cơ
sở để đưa ra các kết luận và kiến nghị kiểm toán, nắm bắt được tất cả các vấn đề
quan trọng và các kết luận kiểm toán.
Trao đổi thông tin
34. Kiểm toán viên nhà nước phải trao đổi thông tin cần thiết trong các giai
đoạn của cuộc kiểm toán
Các vấn đề liên quan đến cuộc kiểm
toán cần được thông báo cho đơn vị được kiểm toán. Đây là nguyên tắc cơ
bản để duy trì và phát triển mối quan hệ phối hợp. Việc trao đổi thông tin
bao gồm thu thập thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán và cung cấp kịp thời
các kết quả quan sát được và các phát hiện trong quá trình làm việc cho những đối
tượng chịu trách nhiệm quản lý và quản trị. Kiểm toán viên nhà nước cũng có
trách nhiệm trao đổi các vấn đề có liên quan đến cuộc kiểm toán với các bên
liên quan khác theo quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc cụ thể
cho từng giai đoạn của cuộc kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán
35. Kiểm toán viên nhà nước phải đảm bảo các yếu tố có liên quan đến cuộc
kiểm toán đã được xác định rõ ràng
Các cuộc kiểm toán có thể được thực
hiện theo yêu cầu của luật định, yêu cầu của cơ quan lập pháp, giám sát, hay do
Kiểm toán nhà nước đề xuất hoặc được thực hiện trên cơ sở đề nghị của đơn vị
được kiểm toán. Trong tất cả các trường hợp, kiểm toán viên nhà nước, các đối
tượng chịu trách nhiệm quản lý và quản trị của đơn vị được kiểm toán và các tổ
chức, cá nhân khác có liên quan phải có sự hiểu biết về các vấn đề có liên quan
đến cuộc kiểm toán, vai trò và trách nhiệm của các đối tượng này trong
cuộc kiểm toán. Các thông tin quan trọng bao gồm: mục tiêu, nội dung, phạm
vi của cuộc kiểm toán, tiếp cận dữ liệu thông tin, báo cáo của đơn vị được kiểm
toán, thông tin liên hệ khi cần thiết, quy trình kiểm toán, vai trò và trách
nhiệm của các đối tượng liên quan đến cuộc kiểm toán.
36. Kiểm toán viên nhà nước cần am
hiểu về đơn vị, chương trình được kiểm toán
Điều này bao
gồm sự hiểu biết về mục tiêu, hoạt động, môi trường pháp lý, hệ thống kiểm soát
nội bộ, hệ thống tài chính và chu trình hoạt động, đồng thời nghiên cứu các nguồn
có khả năng cung cấp bằng chứng kiểm toán. Sự hiểu biết có thể đạt được thông
qua việc trao đổi với những đối tượng chịu trách nhiệm quản lý, quản trị và các
bên có liên quan khác. Để có được sự hiểu biết đầy đủ về đơn vị, chương trình
được kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước có thể tham vấn ý kiến của các chuyên
gia, kiểm tra các nguồn tài liệu sẵn có.
37. Kiểm toán viên nhà nước thực hiện
đánh giá rủi ro
Tính chất của những rủi ro đã xác định sẽ thay đổi tùy thuộc vào mục tiêu
kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước cần xem xét và đánh giá các loại rủi ro
khác nhau như sự thiếu sót, sai lệch hay sai sót có thể xảy ra liên quan đến nội
dung kiểm toán. Cần xem xét cả rủi ro một cách tổng thể và cụ thể. Để đánh giá
rủi ro, kiểm toán viên nhà nước áp dụng các thủ tục cần thiết để tìm hiểu về
đơn vị hoặc chương trình được kiểm toán, môi trường và các thủ tục kiểm soát nội
bộ liên quan. Kiểm toán viên nhà nước cần đánh giá các biện pháp quản lý rủi
ro của đơn vị được kiểm toán, như việc thực hiện các thủ tục kiểm soát
nội bộ để quản lý rủi ro. Việc xác định các rủi ro và ảnh hưởng của chúng
đối với cuộc kiểm toán cần được xem xét trong suốt quá trình kiểm toán.
38. Kiểm toán viên nhà nước phải xác định và đánh giá các rủi ro do gian lận liên quan đến các mục tiêu kiểm toán
Kiểm toán viên nhà nước thực hiện phỏng
vấn và các thủ tục kiểm toán để xác định và ứng phó với các rủi ro do gian lận; duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp và cảnh giác với khả năng do gian lận trong suốt quá trình kiểm toán.
39. Kế hoạch kiểm toán phải được lập để đảm bảo cuộc kiểm toán được thực hiện một
cách có hiệu lực và hiệu quả
Kế hoạch kiểm toán của một cuộc kiểm
toán cụ thể bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng quát và kế hoạch kiểm toán chi tiết.
Kế hoạch kiểm toán tổng quát xác định một số
nội dung chủ yếu như: phạm vi, mục tiêu và phương pháp kiểm toán. Mục tiêu kiểm
toán là yếu tố mà cuộc kiểm toán dự định đạt được. Phạm vi kiểm toán liên quan
đến nội dung kiểm toán và các tiêu chí mà kiểm toán viên nhà nước sử dụng để
đánh giá và báo cáo về nội dung kiểm toán và nó có liên quan trực tiếp đến các
mục tiêu kiểm toán. Phương pháp kiểm toán đề cập đến cách thức và phạm vi các
thủ tục kiểm toán được thực hiện để thu thập bằng chứng kiểm toán. Cuộc kiểm
toán phải được lập kế hoạch để giảm thiểu rủi ro kiểm toán xuống mức thấp chấp
nhận được.
Kế hoạch kiểm toán chi tiết phải được xây dựng căn cứ trên kế hoạch kiểm
toán tổng quát để thực hiện các nội dung đã được xác định trong kế hoạch kiểm
toán tổng quát, bằng cách chi tiết và cụ thể hơn các nội dung kiểm toán cho từng
đơn vị được kiểm toán.
Trong suốt quá trình kiểm toán, khi có
những thay đổi đáng kể về đặc điểm tình hình công việc thì phải điều chỉnh kế hoạch
kiểm toán.
Thực hiện kiểm toán
40. Kiểm toán viên nhà nước thực hiện các thủ tục kiểm
toán để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở để lập báo cáo
kiểm toán
Các quyết định của kiểm toán viên nhà nước
về cách thức, thời gian và phạm vi thực hiện các thủ tục
kiểm toán sẽ ảnh hưởng đến bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Việc lựa chọn các
thủ tục kiểm toán cụ thể sẽ phụ thuộc vào đánh giá rủi ro kiểm toán hay phân
tích các vấn đề.
Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông
tin do kiểm toán viên nhà nước thu thập
được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các tài liệu, thông tin
này, kiểm toán viên đưa ra kết luận và từ đó hình thành ý kiến
kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán được sử dụng để xác định việc tuân thủ
theo các tiêu chí kiểm toán của nội dung được kiểm toán.
Bằng chứng kiểm toán có nhiều
hình thức như: hồ sơ chứng từ bằng giấy, hồ sơ chứng từ điện tử, trao đổi bằng
văn bản và thư điện tử với các tổ chức, cá nhân bên ngoài, các ghi chép về những
quan sát của kiểm toán viên nhà nước, sự xác nhận
của đơn vị được kiểm toán bằng văn bản hoặc bằng lời. Các phương pháp thu thập
bằng chứng kiểm toán bao gồm: kiểm tra, quan sát, xác nhận từ bên ngoài,
tính toán lại, thủ tục phân tích, điều tra, phỏng vấn và thực hiện lại. Bằng chứng
kiểm toán phải đảm bảo tính đầy đủ và tính thích hợp:
(i)
Tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán: Là tiêu
chuẩn đánh giá về số lượng bằng chứng kiểm toán. Số lượng bằng
chứng kiểm toán cần thu thập chịu ảnh hưởng bởi đánh giá của kiểm
toán viên nhà nước đối với rủi ro có sai sót trọng yếu và chất
lượng của mỗi bằng chứng kiểm toán;
(ii)
Tính thích hợp của bằng chứng kiểm toán: Là tiêu
chuẩn đánh giá về chất lượng của các bằng chứng kiểm toán. Bằng
chứng kiểm toán phải đảm bảo phù hợp và đáng tin cậy để hỗ trợ
cho kiểm toán viên nhà nước đưa ra các kết luận làm cơ sở hình thành
ý kiến kiểm toán.
Các phát hiện kiểm toán ban đầu cần được
thông báo và trao đổi với đơn vị được kiểm toán để đảm bảo sự tin cậy và thuyết
phục. Tuy nhiên, kiểm toán viên nhà nước phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về
tính bảo mật.
41.
Kiểm toán viên nhà
nước đánh giá bằng chứng kiểm toán và
đưa ra các kết luận kiểm toán
Sau khi hoàn thành các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước xem xét
lại hồ sơ kiểm toán nhằm xác định các nội dung kiểm toán đã được kiểm toán một
cách đầy đủ và thích hợp. Trước khi đưa ra kết luận kiểm toán, trên cơ sở bằng
chứng thu thập được, kiểm toán viên nhà nước phải xem xét lại đánh giá ban đầu
về rủi ro và trọng yếu kiểm toán và xác định xem có cần thiết phải tiến hành
các thủ tục kiểm toán bổ sung hay không.
Kiểm toán viên nhà nước đánh
giá bằng chứng kiểm toán để hình thành các phát hiện kiểm toán. Việc đánh giá bằng
chứng kiểm toán phải khách quan và công bằng. Khi đánh giá bằng chứng kiểm toán
và xem xét mức độ trọng yếu của các phát hiện kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước phải xem xét cả hai yếu tố định tính và định lượng.
Trên cơ sở các phát hiện kiểm toán,
kiểm toán viên nhà nước thực hiện các xét đoán chuyên môn để đưa ra kết luận
về nội dung kiểm toán hoặc kết luận về các thông tin liên quan đến nội dung kiểm
toán.
Lập báo cáo kiểm toán
42. Kiểm toán viên nhà nước lập báo cáo kiểm toán trên cơ sở các kết
luận kiểm toán
Báo
cáo kiểm toán nhằm cung cấp thông tin về kết quả kiểm toán cho cơ quan lập
pháp, cơ quan giám sát, các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm điều hành và
công chúng. Báo cáo kiểm toán cũng là cơ sở để kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm
toán và việc thực hiện các biện pháp khắc phục hạn chế, sai sót.
Các báo cáo
kiểm toán phải dễ hiểu, toàn diện, tránh có những thông tin không rõ ràng hoặc mang
tính phỏng đoán. Báo cáo kiểm toán phải khách quan và hợp lý, chỉ bao gồm các
thông tin đã được chứng minh bằng đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp và
đảm bảo rằng các phát hiện kiểm toán là phù hợp.
Báo cáo kiểm toán cần giải thích về
việc sử dụng các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được và lý do đưa ra các kết
luận kiểm toán. Việc này sẽ giúp tạo ra mức độ tin cậy cần thiết đối với đối tượng
sử dụng báo cáo kiểm toán.
Hình thức và nội dung báo cáo
phụ thuộc vào đặc điểm của cuộc kiểm toán, các đối tượng sử dụng báo cáo, các
chuẩn mực áp dụng và các yêu cầu pháp lý. Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể về
kết cấu hay các nội dung chính của báo cáo, nó có thể dưới dạng báo cáo đầy
đủ hay báo cáo tóm tắt.
Báo
cáo đầy đủ thông thường đề cập chi tiết phạm vi, phát hiện, kết luận
kiểm toán, các hậu quả có thể xảy ra do hạn chế, sai sót và các kiến nghị làm
cơ sở để tiến hành các biện pháp khắc phục sai sót.
Báo
cáo tóm tắt thường súc tích, cô đọng và trọng tâm hơn.
Đối với dạng công việc
kiểm tra xác nhận
Báo cáo kiểm toán
có thể trình bày dưới dạng xác nhận mức độ phù hợp nội dung, thông
tin, số liệu được kiểm toán, xét trên các khía cạnh trọng yếu, so với
các tiêu chí kiểm toán.
Đối với dạng công việc kiểm tra đánh giá
Báo cáo kiểm toán cần đề cập các mục
tiêu kiểm toán và mô tả cách thức thực hiện. Báo cáo kiểm toán có thể được
trình bày dưới các hình thức như phát hiện, kết luận, kiến nghị hay ý kiến kiểm
toán về kết quả đo lường, đánh giá các nội dung kiểm toán so với
tiêu chí. Ngoài ra, cũng có thể đề cập các thông tin bổ sung về tiêu chí,
phương pháp kiểm toán và nguồn dữ liệu sử dụng, mô tả các giới hạn về phạm vi
kiểm toán trong báo cáo kiểm toán.
43. Ý kiến kiểm toán
Ý kiến kiểm toán được sử dụng
để phản ánh mức độ đảm bảo và cần được trình bày theo mẫu chuẩn. Ý kiến kiểm
toán có thể dưới dạng chấp nhận toàn phần hay không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần. Ý kiến không phải là chấp nhận toàn phần có
ba dạng ý kiến là ý kiến kiểm toán ngoại trừ, ý kiến kiểm toán
trái ngược hoặc từ chối đưa ra ý kiến.
(i)
Ý kiến chấp nhận toàn phần: Là ý kiến được đưa
ra khi kiểm toán viên nhà nước kết luận rằng báo cáo của đơn vị
được kiểm toán, các thông tin, tình hình hay các hoạt động, xét trên
các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với các tiêu chí đã được xác
lập. Ý kiến chấp nhận toàn phần được sử dụng trong cả hai trường hợp đảm bảo hạn
chế hay đảm bảo hợp lý.
(ii)
Ý kiến kiểm toán ngoại trừ: Là ý kiến được đưa ra
khi:
·
Dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ thích
hợp đã thu thập được, kiểm toán viên nhà nước kết luận rằng các sai
sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu nhưng chỉ
có ảnh hưởng giới hạn đến một số yếu tố, khoản mục cụ thể.
·
Kiểm toán viên nhà nước không thể thu thập đầy đủ
bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm căn cứ đưa ra ý kiến kiểm
toán, nhưng kiểm toán viên nhà nước kết luận rằng những ảnh hưởng
có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể
trọng yếu nhưng chỉ có ảnh hưởng giới hạn đến một số yếu tố,
khoản mục cụ thể.
(iii)
Ý kiến trái ngược: Là ý kiến được đưa ra khi dựa
trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp thu thập được, kiểm
toán viên nhà nước kết luận rằng các sai sót, xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại
có ảnh hưởng trọng yếu và có ảnh hưởng quan trọng đến tổng thể nội
dung được kiểm toán.
(iv)
Từ chối đưa ra ý kiến: Kiểm toán viên nhà nước
phải từ chối đưa ra ý kiến khi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán do sự không chắc chắn
hoặc do giới hạn về phạm vi kiểm toán và kiểm toán viên nhà nước kết
luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát
hiện (nếu có) có thể là trọng yếu và có ảnh hưởng quan trọng đến
tổng thể nội dung được kiểm toán.
Khi ý kiến kiểm toán không phải là
ý kiến chấp nhận toàn phần, trong báo cáo kiểm toán cần trình bày rõ ràng
các nguyên nhân, cơ sở dẫn đến việc đưa ra ý kiến không phải là chấp
nhận toàn phần. Tùy theo loại hình kiểm toán, báo cáo kiểm toán cũng có thể
đưa ra các kiến nghị để khắc phục sai sót và các tồn tại của hệ thống kiểm soát
nội bộ.
Theo
dõi, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán
44. Kiểm toán nhà nước phải theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán
Kiểm toán nhà nước theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kết
luận, kiến nghị kiểm toán nhằm đánh giá việc thực hiện các kết luận và kiến
nghị của đơn vị được kiểm toán, việc giải quyết các vấn đề đã nêu trong báo cáo
kiểm toán của đơn vị được kiểm toán và các bên có liên quan, đồng thời phục vụ
cho việc lập kế hoạch kiểm toán lần sau.
Đối với cuộc kiểm
toán được thực hiện thường niên, thủ tục kiểm tra thực hiện kết luận,
kiến nghị có thể được thực hiện ngay trong quá trình
thực hiện kiểm toán tiếp theo.
Kiểm toán nhà nước lập báo cáo kết quả kiểm
tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán. Nếu kết luận,
kiến nghị kiểm toán chưa được thực hiện hoặc được
thực hiện chưa đầy đủ, Kiểm toán nhà nước tiếp tục kiến nghị, yêu cầu các đơn vị
thực hiện kiến nghị kiểm toán.
Kiểm toán
nhà nước có thể điều chỉnh kiến nghị kiểm toán khi có đủ cơ sở cho rằng kiến
nghị kiểm toán trước đây là chưa phù hợp hoặc có phát sinh thêm các tình tiết mới
ảnh hưởng đến kiến nghị kiểm toán.
|
TỔNG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC (Đã ký) Hồ Đức Phớc |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét