Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2021

Xã hội học đô thị

 

Nếu các bạn có nhu cầu làm tiểu luận xã hội học thì vô hocthue.net đặt nhé



Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ

 

 

1.  HỘI HỌC ĐÔ THỊ TRONG HỘI HIỆN ĐẠI

Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, công nghiệp hoá TBCN và kéo theo nó là quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đi kèm với vô số những vấn đề xã hội nảy sinh ở các đô thị đã thu hút sự chú ý của các nhà xã hội học phương Tây.

Đến đầu thế kỷ XXI, quá nửa dân trên toàn thế giới đang sống các đô thị và văn hoá đô thị của họ đang chi phối nhiều mặt đời sống của phần dân cư còn lại sống nông thôn. Tầm quan trọng của các đô thị trong hội hiện đại ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Điều này đã thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách mô tả và lý giải nhiều vấn đề trong cấu trúc và lối sống đô thị.

Xã hội học đô thị ra đời từ đầu thế kỷ XX, đi liền với quá trình công nghiệp hóa TBCN. Tại các nước đi đầu trong quá trình đô thị hoá ở Tây Âu và Bắc Mỹ, nhiều trường Đại học đã tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề xã hội của đô thị của quá trình đô thị hoá. Nhiều công trình nghiên cứu về nhiều mặt của đời sống đô thị đã được xuất bản. Trên cơ sở đó, ở châu Âu và Bắc Mỹ đã hình thành chuyên ngành Xã hội học về đời sống đô thị (Sociology of Urban Life) hay Xã hội học Đô thị (Urban Sociology). Những năm 50 của thế kỷ XX, đã có các Hội nghị quốc tế đầu tiên về đề tài nghiên cứu xã hội học đô thị.

Do vị trí và vai trò của đô thị đối với đời sống xã hội hiện đại, một số nhà xã hội học còn đồng nhất XHH Đô thị với XHH. Bất kỳ hiện tượng hội nào chiều cạnh đô thị thì đều được xem là đối tượng nghiên cứu của XHH Đô thị. Ngược lại, hầu hết các vấn đề mà XHH Đô thị nghiên cứu cũng là những vấn đề của xã hội hiện đại. Nhiều chuyên ngành XHH khác cũng đều có chiều cạnh phân biệt đô thị - nông thôn. Chẳng hạn, tội phạm học nghiên cứu về sai lệch hội chủ yếu nghiên cứu trong điều kiện sống đô thị. Dân số học quan tâm nhiều đến quá trình di nông thôn - đô thị; Các nghiên cứu về chính sách xã hội, gia đình, người già, y tế, khác biệt xã hội, quyền lực,... đều có các chiều cạnh đô thị trong đó.

Đặc điểm nói trên cũng được phản ánh trong việc xác định đối tượng hay hệ vấn đề nghiên cứu của XHH Đô thị. Trong cuốn “Xã hội học về các vùng đô thị” (The Sociology of Urban Regions) nhà xã hội học Mỹ A. Boskoff đã xác định hệ vấn đề nghiên cứu của xã hội học đô thị như sau: “Gia đình và hôn nhân, giáo dục trẻ con, tội phạm và đặc biệt là tội phạm trẻ em, sự di cư, những vấn đề chủng tộc, người già sức khỏe tâm lý, giai cấp xã hội, tôn giáo, học vấn và các xu hướng trong


đời sống xã hội đó là phạm vi các vấn đề mà xã hội học đô thị nghiên cứu”. Có thể thấy ở đây một “phổ” rộng lớn của các vấn đề, hầu như bao trùm cả xã hội theo bề rộng và có liên quan đến nhiều chuyên ngành hội học khác.

Mặt khác, có thể thấy xã hội học đô thị ra đời trong bối cảnh diễn ra sự phân liệt xã hội (nong thôn) cổ truyền và phát sinh xã hội đô thị hiện đại. Đây là một hội rộng lớn, không thuần nhất, phát triển và biến đổi với tốc độ chưa từng thấy. Điều này đã thúc đẩy các nhà hội học đi sâu nghiên cứu về những chuyển đổi này, tìm hiểu bản chất của cơ cấu và các quá trình của xã hội đô thị, qua đó lý giải bản chất của đô thị, cộng đồng đô thị đời sống đô thị.

Việc các nhà xã hội học phương Tây thời kỳ này chú ý nhiều tới các vấn đề đô thị đã được K. Davis giải thích như sau: Một là, so với nhiều thiết chế xã hội khác, đô thị một hiện tượng mới trong lịch sử nhân loại. Hai , đo thị đang tạo ra những cải biến có tính chất cách mạng trong lối sống và trong cơ cấu xã hội của xã hội. Ba là, các đô thị và sự phát triển vũ bão của chúng đang trở thành những trung tâm thu hút, có ảnh hưởng lớn tới các vùng nông thôn xung quanh. Bốn là, đô thị ngày càng mạnh mẽ khiến cho nảy sinh nhiều vấn đề xã hội mới.

Mặc cho đến nay vẫn lưu hành nhiều định nghĩa về hội học đô thị, song du chấp nhận định nghĩa nào, các nghiên cứu hội học đô thị đều liên quan tới việc khảo sát rộng rãi quá trình đô thị hoá, trong đó nêu những ảnh hưởng tác động qua lại của quá trình này tới các tổ chức, các cá nhân và cộng đồng dân cư đô thị nói chung.

2.  SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI HỌC ĐÔ THỊ QUA CÁC THỜI KỲ

Ra đời vào đầu thế kỷ XX, xã hội học đô thị đã trải qua hơn một thế kỷ hình thành và phát triển. Có thể tạm thời chia sự phát triển của XHH Đô thị thành 2 giai đoạn chính như sau.

2.1  Nửa đầu thế kỷ XX - " kỷ nguyên vàng" của Xã hội học Đô thị.

Buổi đầu, một số nhà xã hội học phương tây đã có sẵn một định kiến “phản đô thị” trong cách nhìn của họ đối với thực tế phát triển đô thị và quá trình đô thị hoá trong thời đại của họ. Ngay từ năm 1903, George Simmel (1858-1928), nhà xã hội học Đức, trong cuốn sách ”The Mertopolis and Methal Life” (Các siêu đô thị và đời sống tinh thần) đã thể hiện những định kiến này khi tranh luận về lối sống đô thị và nhân cách. Khi mô tả các loại hình đô thị ông nhìn thấy ở đó những hậu quả của sự tập trung dân quá đông, xem đó như nguyên nhân dẫn đến hình thành những đặc trưng vật chất của đô thị cũng như những đặc trưng xã hội của thị dân. Đây là cách tiếp cận bệnh học xã hội (social pathology) đối với đời sống đô thị.


Với L. Wirth, người theo thuyết Darwin xã hội, thì có ba đặc trưng phổ biến của các đô thị là: quy lớn, mật độ cao tính khác biệt về hội (large size, high dentisy and social heterogeneity) quy định những đặc trưng xã hội của đời sống đô thị như một lối sống (urbanism / life-style).

Những ý tưởng này chính sở cho sự ra đời của Trường phái Chicago rất nổi tiếng trong XHHĐT với một hệ quan điểm (pagadigm) giữ vai trò thống trị trong suốt những năm 1920-1950 vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Hệ quan điểm này bao gồm: Sinh thái học nhân văn (Human Ecology), Bệnh lý học xã hội (Social Pathology) và Tâm lý học hội (Social Psychology).

Các nghiên cứu xã hội học thời kỳ này được tập trung tại thành phố Chicago (Mỹ), đang phát triển cực kỳ nhanh chóng được coi là một “phòng thí nghiệm hội học” cho các giáo sư của trường Đại học Chicago. Nhiều vấn đề xã hội được nghiên cứu như: dân nhập cư, tội phạm và sự lệch chuẩn, lập bản đồ tổ chức không gian xã hội của thành phố và lý giải sự tương ứng giữa tổ chức không gian và tổ chức xã hội, cơ cấu xã hội nói chung. Thông qua các nghiên cứu này, XHHĐT đã trở thành một chuyên ngành với nguồn gốc từ Trường phái Chicago.

Trường phái Chicago cũng gắn liền với phương hướng nghiên cứu thực nghiệm, điền trực tiếp, đối lập với các phương hướng thuyết trước đây. Robert Park, một trong các giáo sư là cha đẻ của trường phái Chicago đã dạy sinh viên của ông: hãy đến ngồi các tiền sảnh của các khách sạn sang trọng, bên thềm các nhà hát, đến các khu chuột, các sàn nhảy,.. để quan sát cảm nhận một cách thực sự thế giới hiện thực cần nghiên cứu (thâm nhập thực tế)...

Chỉ dẫn này đã đưa tới một loạt các công trình nghiên cứu thực nghiệm mà sau này trở thành kinh điển trong xã hội học đô thị: Băng đảngr(The Gang, 1927), The Hobo, Bờ biển Vàng và Khu ổ chuột (The Gold Coast and Slum), Xã hội góc phố (The street-corner Society), Gái nhảy chuyên nghiệp (The taxi-hall dancers),... Đây cũng là những thử nghiệm về phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là các phương pháp "quan sát tham dự" và “nghiên cứu trường hợp (case study) trong xã hội học ứng dụng sau này.

2.2    Nửa sau thế kỷ XX - sự bế tắc về lý thuyết và các hướng phát triển mới

Những năm 1960, hệ quan điểm của trường phái Chicao bị phân các nhà hội học không thoả mãn với việc nghiên cứu chỉ các mặt riêng lẻ của đô thị. Con đường nhận thức cần phải đi từ các nghiên cứu riêng lẻ để khái quát thành các nghiên cứu rộng lớn hơn. Để khẳng định xã hội học đô thị như một chuyên ngành độc lập, phải đối tượng, thuyết, hệ khái niệm các phương pháp nghiên cứu riêng. Những cái đó ? Làm sao để XHH ĐT phân biệt các vấn đề nghiên cứu của


với các vấn đề ở nông thôn và các vấn đề đô thị do các bộ môn khác nghiên cứu và giải quyết?

Hai nhà hội học Hebert Gans (Mỹ) R.E. Pahl (Anh) đã bác bỏ sự liên kết cần thiết giữa ba đặc trưng của đô thị của L. Wirth (quy mô lớn, mật độ cao, sự khác loại về thành phần xã hội) với những lối sống đặc thù. Họ phê phán rằng, về mặt thuyết, cách tiếp cận này sẽ dẫn đến chủ nghĩa tự nhiên, đề cao các đặc trưng vật thể của đô thị, coi đó nguyên nhân chứ không phải hậu quả của các quá trình hội, đẻ từ đó dẫn đến kết luận sai lầm rằng, các khuôn mẫu của đời sống đô thị do chính các đô thị tạo ra.

Vào thời kỳ này, xã hội học đô thị Mỹ đã có những quan điểm mới, khi cho rằng không chỉ nghiên cứu những mảng riêng biệt của cơ cấu kinh tế và xã hội cuả đô thị mà cần nghiên cứu chúng một cách tổng thể. Một số tác giả nhấn mạnh đến những điều kiện bên ngoài cấu hội như những cái quyết định sự phát triển của một đô thị. Số khác lại ưu tiên đề cập đến các giá trị văn hoá quyền lực chính trị. Ngay trong nội bộ mỗi nhóm học giả cũng không có sự thống nhất hoàn toàn trong các định hướng luận phương pháp luận.

Cuộc tranh luận suốt thập kỷ 70 của thế kỷ XX xung quanh những vấn đề lý luận về xã hội học đô thị được xem là những cố gắng để vượt qua sự khủng hoảng về lý thuyết trong thời gian dài, khi mà một lý thuyết chủ đạo về xã hội học đô thị vẫn chưa định hình và được công nhận một cách triệt để.

Rốt cuộc thì cũng xuất hiện một số lý thuyết mới cho XHH đô thị, bao gồm: các luận thuyết Weber mới về các giai cấp nhà ở, về giới quản lý đô thị, về cái gọi là XHH đô thị "phi không gian" hoặc sự phân chia ra cái gọi là "các khu vực tiêu dùng" và một quan điểm Mác-xít về đô thị như một không gian của sự "tiêu dùng tập thể".

Những quan điểm trên đã định hình nên một XHH đô thị mới vào những năm 1970 với công trình nền tảng của Manuel Castell The Urban Question (Vấn đề đô thị), đánh dấu một giai đoạn mới trong lý luận và nghiên cứu đô thị. Những khái niệm lý luận và thực nghiệm mới của Castell là rất đáng chú ý. Đặc biệt định nghĩa của ông, dựa trên quan điểm Mác-xít mới, coi đô thị là "một không gian cho sự tiêu dùng tập thể", hoặc những quan niệm về tầm quan trọng của các phong trào xã hội đô thị; quan điểm mac-xít mới về tính tự trị tương đối của nhà nước.

Tuy vậy, về sau Castell gần như đã rời bỏ quan điểm Mac-xít mới để chuyển sang quan điểm trung tính hơn về tác động của các phong trào xã hội đô thị. Trong công trình The Information City (Thành phố Thông tin. 1989), ông luận giải rằng, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đánh dấu một giai đoạn mới trong nền sản


xuất TBCN và những mô hình mới của phát triển đô thị và phát triển vùng. Công trình gần đây nhất của ông theo hướng tiếp cận này cuốn sách "Information Society and the Welfare State. The Finish model" (Xã hội Thông tin và Nhà nước Phúc lợi. hình Phần Lan) viết chung với học giả người Phần Lan Pekka Hamanen (Oxford University Ppress, 2002).

Các phương hướng của XHH đô thị mới sau này đã mở rộng nghiên cứu về đô thị trên các chủ đề đa dạng như kinh tế học chính trị của sự phát triển đô thị và vùng, chính trị học đô thị, các phong trào xã hội ở đô thị, quan hệ giữa không gian cấu hội. Một số tài liệu cũng giới thiệu các quan điểm XHH chung hơn như phân tầng xã hội, hành động xã hội, sự phân phối quyền lực,

Tuy nhiên, cho đến nay, không một phương hướng luận nào sau này thể sánh được với trường phái Chicago về mức độ ảnh hưởng tới xã hội học đô thị.

Trong quá trình phân định về mặt lý thuyết cho môn XHH đô thị, các nghiên cứu XHH đô thị ứng dụng, thực nghiệm đã đang những đóng góp căn bản cho XHH nói chung cũng như cho các môn khoa học xã hội khác.

Nét nổi bật của nó là khả năng thâm nhập và tìm hiểu các khía cạnh đa dạng của đời sống đô thị, với kho tàng phong phú các nghiên cứu thực nghiệm, từi nhiều quan điểm, cách tiếp cận của các trường phái khác nhau, Nhiều kết quả trong việc phát triển hệ phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu và sử dụng các công cụ xử lý thông tin định lượng, thống kê học đã được sử dụng.

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn thiếu vắng những lý luận hoàn chỉnh, vững chắc hoặc một lý thuyết tổng thể về xã hội học đô thị. Một tấm khảm sặc sỡ các nghiên cứu đơn lẻ, cho dù nó rộng lớn và đa dạng đến đâu, cũng chưa thể cho chúng ta hiểu đầy đủ về đô thị như một chỉnh thể. Sự phát triển của XHH đô thị về mặt lý thuyết vẫn một chủ đề mở cần có những phát triển bổ sung tiếp theo.

3.  ĐÔ THỊ VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH ĐÔ THỊ

3.1. Các định nghĩa về đô thị

Đô thị có ở khắp mọi nơi, song lại không có sự thống nhất giữa các quốc gia về cách hiểu thế nào là một đô thị. Ở Mỹ, một đô thị là bất kỳ cộng đồng nào có số dân từ 2.500 người trở lên; còn một “vùng đô thị hoá” là một đô thị với số dân không dưới 50.000 người. Ở Nam Phi, được coi là đô thị tuỳ thuộc vào chủng tộc dân cư. Còn ở Brazil thì quy mô dân số không quan tang mà chỉ có thủ đô mới là đô thị.


thể định nghĩa đô thị khi dựa trên quy dân số, hay dựa trên các chức năng khác của chúng.

Định nghĩa xã hội học về đô thị dựa trên cấu trúc xã hội và chức năng mà nó đảm nhận. Các nhà xã hội học không quan tâm đến số dân tối thiểu hay sự thừa nhận chính thức của đô thị về mặt tổ chức. Xã hội học định nghĩa các đô thị như là những hình thức tổ chức xã hội có xuất xứ địa lý và mang những đặc trưng nhất định.

·       Thứ nhất, có số đân tương đối đông, mật độ dân số cao và không thuần nhất (Wirth 1938);

·       Thứ hai, ít nhất có một bộ phận dân cư làm các công việc phi nông nghiệp và có một số chuyên gia (một số nhà KHXH còn yêu cầu phải có sự hiện diện của ngôn ngữ viết - Sjoberg 1965);

·       Thứ ba, theo Max Weber, một đô thị phải đảm nhận những chức năng thị trường ít nhất phải có một phần quyền lực quản lý điều hành (Weber 1958);

·       Thứ , các đô thị thể hiện những hình thức tương tác, trong đó một cá nhân

được biết đến không phải như là một nhân cách đầy đủ, mà là với các vai trò họ đảm nhận.

·       Thứ năm, các đô thị đòi hỏi sự “gắn kết xã hội” rộng hơn là gia đình, dòng họ, hay bộ tộc, mà dựa trên luật lệ hợp lý.

Tuy chưa phải là một định nghĩa đầy đủ, song nhìn chung, định nghĩa đô thị nói trên dựa trên sự tổ chức, các chức năng những đặc trưng xã hội của nó.

Định nghĩa khác:

Đô thị một kiến tạo lãnh thổ - hội, một hình thức trú mang tính toàn vẹn lịch sử của con người, được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

·       nơi tập hợp của một số lượng lớn dân cư trên một lãnh thổ hạn chế.

·       đại bộ phận dân sống đây làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp (công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ,...)

·       môi trường trực tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hội và cá nhân.

·       giữ vai trò chủ đạo đối với các vùng nông thôn xung quanh và toàn xã hội nói chung.

Hai dấu hiệu đầu định lượng, còn hai dấu hiệu sau định tính. Mỗi quốc thể những quy định riêng đối với các dấu hiệu này. Việt Nam, theo quy định hiện


hành của TCTK, một điểm dân cư được coi là đô thị khi có dân số từ 4.000 người trở lên, trong đó ít nhất 60% không làm nông nghiệp.

3.2 Hai nhóm yếu tố cấu thành đô thị

Nhằm phân biệt xã hội học đô thị với các bộ môn khoa học khác cũng lấy đô thị làm khách thể nghiên cứu, một cách phân chia tương đối đơn giản về hai nhóm thành tố cấu tạo nên một đô thị là:

1.   Các thành tố không gian- vật chất. Đó là môi trường không gian-hình thể (vật thể) do con người tạo ra, bao gồm không gian kiến trúc, quy hoạch, cảnh quan đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cả điều kiện khí hậu sinh thái tự nhiên.

2.    Các thành tố tổ chức- xã hội. Đó là cộng đồng dân cư sinh sống trên lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế luật lệ hiện hành tại đó.

Trên thực tế thì hai nhóm thành tố này không thể tách rời nhau trong mối quan hệ giữa một bên môi trường sống, điều kiện sống với một bên những con người hoạt động trong đó. Các môn khoa học nghiên cứu về đô thị đều xoay quanh mục tiêu nghiên cứu và bảo đảm cho sự vận hành và phát triển bình thường của các đô thị, bảo đảm sự liên kết tối ưu giữa hai thành tố cấu thành đô thị này.

Các khoa học như kiến trúc, quy hoạch đô thị, xây dựng đô thị, sinh thái học đô thị thì quan tâm trước hết đến việc tạo ra những bộ phận hay toàn bộ môi trường không gian vật chất - hình thể của đô thị. Các yếu tố tổ chức - xã hội nếu được đề cập đến chỉ yếu tố hỗ trợ, bổ sung. Trong khi đó, hội học đô thị lại chú ý trước hết tới yếu tố này - cộng đồng dân đô thị với những đặc điểm kinh tế - hội của nó, sự thích ứng hay hoà nhập với môi trường vật chất - hình thể của đô thị. Và vì thế, hai nhóm bộ môn khoa học này tất yếu phải liên hệ với nhau dưới nhiều hình thức.

3.3. Vị trí và vai trò của đô thị trong lịch sử:

Lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng: các đô thị lớn thường đóng vai trò là các trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá của xã hội, là động lực của sự tiến bộ trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt là trong những thời kỳ chuyển biến mang tính cách mạng.

Các nền văn minh từ cổ đại, trung đại đến hiện đại đều mang dấu ấn những nền văn minh đô thị nét. Hy Lạp La cổ đại những bằng chứng nhất về những nền văn minh đô thị với các thành bang (polis) rất phồn thịnh, với nhiều thể chế và luật lệ tiến bộ.


Cũng trong lịch sử, các đô thị luôn giữ vai trò là đầu tàu, dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi theo mình trên con đường tiến bộ và văn minh. Quá trình phát triển đô thị cũng thường là quá trình phát triển, đưa ánh sáng văn minh của xã hội hiện đại đến các vùng nông thôn, xa xôi hẻo lánh, nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức của người dân đây.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đô thị hoá. Theo thông báo của Liên Hợp quốc, năm 2007, dân số đô thị trong tổng số hơn 6 tỷ người của trái đất đã vượt qua tỷ lệ 50%. Có nghĩa là nhân loại đang và sẽ sống trong một thế giới đô thị hơn một thế giới nông thôn cổ truyền. Điều đó tự nói lên ý nghĩa tầm quan trọng của việc tăng cường hiểu biết của chúng ta về đời sống đô thị từ nhiều phương diện, trong đó có góc nhìn của xã hội học đô thị và đóng góp của nó cho chính quá trình phát triển đô thị và phát triển hội nói chung hiện nay.