Nếu các bạn có nhu cầu làm tiểu luận xã hội học thì vô hocthue.net đặt nhé
Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ
1. XÃ HỘI HỌC
ĐÔ THỊ TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Từ
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, công nghiệp hoá TBCN và kéo theo nó là quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đi kèm với
vô số những vấn đề xã hội nảy sinh ở các đô thị đã thu hút sự chú ý của
các nhà xã hội học phương Tây.
Đến đầu thế kỷ XXI, quá nửa cư dân trên toàn thế giới đang sống ở các đô thị và văn hoá đô thị của họ đang chi phối
nhiều mặt đời sống của phần dân cư còn lại sống ở nông thôn. Tầm quan trọng của các đô thị trong
xã hội hiện đại ngày càng trở nên
rõ rệt hơn. Điều này đã thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách mô tả và lý giải nhiều vấn
đề trong cấu trúc và
lối sống đô thị.
Xã
hội học đô thị ra đời từ đầu thế kỷ XX, đi liền với quá trình công nghiệp hóa TBCN. Tại các nước đi đầu trong quá
trình đô thị hoá ở Tây Âu và Bắc Mỹ, nhiều
trường Đại học đã tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề xã hội của đô thị và của quá trình đô thị hoá. Nhiều công trình nghiên
cứu về nhiều mặt của đời sống đô thị đã được xuất bản.
Trên cơ sở đó, ở châu Âu và Bắc Mỹ đã hình
thành chuyên ngành Xã hội học về đời sống đô thị (Sociology of Urban
Life) hay Xã hội học Đô thị (Urban
Sociology). Những năm 50 của thế kỷ XX, đã có các Hội nghị quốc tế đầu tiên về đề tài nghiên cứu xã
hội học đô thị.
Do
vị trí và vai trò của đô thị đối với đời sống xã hội hiện đại, một số nhà xã hội học còn đồng nhất XHH Đô thị với XHH. Bất kỳ hiện tượng xã hội nào có chiều
cạnh đô thị thì đều được xem là đối tượng nghiên cứu của XHH Đô thị.
Ngược lại, hầu hết các vấn đề mà XHH Đô thị nghiên cứu cũng là những
vấn đề của xã hội hiện đại. Nhiều
chuyên ngành XHH khác cũng đều có chiều cạnh phân biệt đô thị - nông
thôn. Chẳng hạn, tội phạm học và nghiên cứu về sai lệch xã hội chủ yếu nghiên
cứu trong điều kiện sống đô thị. Dân số học quan tâm nhiều đến quá trình di cư nông thôn
- đô thị; Các nghiên cứu về chính sách xã hội, gia đình, người già, y tế, khác biệt xã
hội, quyền lực,... đều có
các chiều cạnh đô thị trong đó.
Đặc
điểm nói trên cũng được phản ánh trong việc xác định đối tượng hay hệ vấn đề nghiên cứu của XHH Đô thị. Trong
cuốn “Xã hội học về các vùng đô thị” (The
Sociology of Urban Regions) nhà xã hội học Mỹ A. Boskoff đã xác định hệ vấn đề nghiên cứu của xã hội học đô thị
như sau: “Gia đình và hôn nhân, giáo dục trẻ
con, tội phạm và đặc biệt là tội phạm trẻ em, sự di cư, những vấn đề chủng tộc, người già
sức khỏe tâm lý, giai cấp xã hội,
tôn giáo, học vấn
và các xu hướng trong
đời
sống xã hội đó là phạm vi các vấn đề mà xã hội học đô thị nghiên cứu”. Có thể thấy ở đây một “phổ” rộng lớn của các vấn
đề, hầu như bao trùm cả xã hội theo bề rộng và có liên quan đến nhiều chuyên
ngành xã hội học khác.
Mặt khác, có thể thấy xã hội học đô thị ra đời trong
bối cảnh diễn ra sự phân liệt xã hội
(nong thôn) cổ truyền và phát sinh xã hội đô thị hiện đại. Đây là một xã hội
rộng lớn, không thuần nhất, phát triển và biến đổi với tốc độ chưa từng thấy. Điều này đã thúc đẩy các nhà xã hội học đi sâu nghiên
cứu về những chuyển đổi này, tìm hiểu bản chất của cơ cấu và các quá trình của xã hội đô thị, qua đó lý giải
bản chất của đô thị, cộng đồng
đô thị và đời sống đô thị.
Việc
các nhà xã hội học phương Tây thời kỳ này chú ý nhiều tới các vấn đề đô thị đã được K. Davis giải thích như
sau: Một là, so với nhiều thiết chế
xã hội khác, đô thị là một hiện tượng mới trong lịch sử nhân loại. Hai là,
đo thị đang tạo ra những
cải biến có tính chất cách mạng trong lối sống và trong cơ cấu xã hội của xã hội. Ba
là, các đô thị và sự phát triển vũ bão của chúng đang trở thành những trung tâm thu hút, có ảnh hưởng lớn tới các
vùng nông thôn xung quanh. Bốn là, đô
thị ngày càng mạnh mẽ khiến cho nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
mới.
Mặc dù cho đến nay vẫn lưu hành nhiều định nghĩa
về Xã hội học đô thị, song du chấp nhận định nghĩa nào, các nghiên
cứu xã hội học đô thị đều liên quan tới việc khảo sát rộng rãi quá trình đô thị hoá, trong đó nêu rõ những ảnh hưởng và tác động qua
lại của quá trình này tới các tổ chức, các cá nhân và cộng đồng dân cư đô thị nói chung.
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ QUA CÁC THỜI KỲ
Ra
đời vào đầu thế kỷ XX, xã hội học đô thị đã trải qua hơn một thế kỷ hình thành và phát triển. Có thể tạm thời chia
sự phát triển của XHH Đô thị thành 2 giai đoạn
chính như sau.
2.1 Nửa đầu thế kỷ XX - "
kỷ nguyên vàng" của Xã hội học Đô thị.
Buổi
đầu, một số nhà xã hội học phương tây đã có sẵn một định kiến “phản đô thị” trong cách nhìn của họ đối với
thực tế phát triển đô thị và quá trình đô thị
hoá trong thời đại của họ. Ngay từ năm 1903, George Simmel (1858-1928),
nhà xã hội học Đức, trong cuốn sách ”The Mertopolis and Methal Life” (Các
siêu đô thị và đời sống tinh thần) đã thể hiện những
định kiến này khi tranh luận về lối sống đô thị và
nhân cách. Khi mô tả các loại hình đô thị ông nhìn thấy ở đó những hậu quả của sự tập trung dân cư quá đông, xem đó như là nguyên nhân dẫn đến hình thành những đặc trưng vật chất của đô thị cũng như
những đặc trưng xã hội của thị dân. Đây là cách tiếp cận bệnh lý học xã hội
(social
pathology) đối với đời
sống đô thị.
Với L. Wirth, người theo thuyết Darwin
xã hội, thì có ba đặc trưng phổ biến của các đô thị là: quy mô lớn, mật độ cao và tính khác biệt về xã hội (large size, high dentisy and social heterogeneity) quy
định những đặc trưng xã hội của đời sống đô thị như một lối sống (urbanism
/ life-style).
Những ý tưởng này chính là cơ sở cho sự ra đời của Trường phái Chicago rất
nổi tiếng trong
XHHĐT với một hệ quan điểm (pagadigm) giữ vai trò thống trị trong suốt
những năm 1920-1950
và vẫn còn ảnh hưởng
đến ngày nay. Hệ quan điểm này bao
gồm: Sinh thái học nhân văn (Human Ecology), Bệnh lý học xã hội (Social Pathology) và Tâm lý học xã hội (Social Psychology).
Các
nghiên cứu xã hội học thời kỳ này được tập trung tại thành phố Chicago (Mỹ), đang phát triển cực kỳ nhanh chóng và được coi là
một “phòng thí nghiệm xã hội học” cho các giáo sư của trường Đại
học Chicago. Nhiều vấn đề xã hội được nghiên
cứu như: dân nhập cư, tội phạm và sự lệch chuẩn, lập bản đồ tổ chức không gian xã hội của thành phố và lý giải sự
tương ứng giữa tổ chức không gian và tổ chức
xã hội, cơ cấu xã hội nói chung. Thông qua các nghiên cứu này, XHHĐT đã trở thành một chuyên ngành với nguồn gốc từ Trường phái Chicago.
Trường phái Chicago cũng gắn liền với phương hướng
nghiên cứu thực nghiệm, điền dã trực tiếp, đối lập với các phương hướng lý thuyết trước
đây. Robert Park, một trong các giáo sư là cha đẻ của
trường phái Chicago đã dạy sinh viên của ông: “hãy đến ngồi ở các tiền sảnh của các khách sạn sang trọng, bên thềm các nhà hát,
đến các khu ổ chuột,
các sàn nhảy,.. để quan sát và cảm nhận một cách thực sự thế giới hiện thực cần nghiên cứu” (thâm nhập thực
tế)...
Chỉ dẫn này đã đưa tới một loạt các công trình nghiên
cứu thực nghiệm mà sau này trở thành
kinh điển trong xã hội học đô thị: Băng đảngr(The Gang, 1927), The Hobo, Bờ biển Vàng và Khu ổ chuột (The
Gold Coast and Slum), Xã hội góc phố
(The street-corner Society), Gái nhảy chuyên nghiệp (The taxi-hall dancers),... Đây cũng là những thử nghiệm về
phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là các phương
pháp "quan sát tham dự" và “nghiên cứu trường hợp (case study)
trong xã hội học ứng dụng sau này.
2.2
Nửa sau thế kỷ XX - sự bế tắc
về lý thuyết và các hướng phát triển mới
Những năm 1960, hệ quan điểm của trường phái Chicao bị phân rã vì các nhà xã hội học không thoả mãn với
việc nghiên cứu chỉ các mặt riêng lẻ của đô thị. Con đường
nhận thức cần phải đi từ các nghiên cứu riêng lẻ để khái quát thành
các nghiên cứu rộng lớn hơn. Để khẳng định xã hội
học đô thị như một chuyên ngành độc lập, nó phải có đối tượng, lý thuyết, hệ khái niệm và các phương pháp nghiên cứu riêng. Những cái đó là gì ? Làm sao để XHH ĐT phân biệt các vấn đề nghiên cứu của nó
với các vấn đề ở nông thôn và các vấn đề đô thị do các bộ
môn khác nghiên cứu và giải quyết?
Hai nhà xã hội học là Hebert Gans (Mỹ) và R.E. Pahl (Anh) đã bác bỏ sự liên kết
cần thiết giữa ba đặc trưng của đô thị của L. Wirth (quy mô lớn, mật độ cao, sự khác loại về thành phần xã hội) với những
lối sống đặc thù. Họ phê phán rằng, về mặt lý thuyết, cách tiếp cận này sẽ dẫn đến chủ nghĩa tự nhiên,
đề cao các đặc trưng vật thể của đô thị, coi đó là nguyên nhân chứ không phải là hậu quả của các quá trình xã hội, đẻ từ đó dẫn đến kết luận sai lầm rằng, các khuôn mẫu của đời sống đô thị là do chính các đô thị tạo ra.
Vào
thời kỳ này, xã hội học đô thị Mỹ đã có những quan điểm mới, khi cho rằng không chỉ nghiên cứu những mảng riêng
biệt của cơ cấu kinh tế và xã hội cuả đô
thị mà cần nghiên cứu chúng một cách tổng thể. Một số tác giả nhấn mạnh đến những điều kiện bên ngoài và cơ cấu xã hội như là những cái quyết định sự phát triển
của một đô thị. Số khác lại ưu tiên đề cập đến các giá trị văn hoá và quyền
lực chính trị. Ngay trong nội bộ mỗi nhóm học giả
cũng không có sự thống nhất hoàn toàn trong
các định hướng lý luận và phương
pháp luận.
Cuộc
tranh luận suốt thập kỷ 70 của thế kỷ XX xung quanh những vấn đề lý luận về xã hội học đô thị được xem là
những cố gắng để vượt qua sự khủng hoảng về
lý thuyết trong thời gian dài, khi mà một lý thuyết chủ đạo về xã hội học đô
thị vẫn chưa định hình và được
công nhận một cách
triệt để.
Rốt cuộc thì cũng xuất hiện một số lý thuyết mới cho
XHH đô thị, bao gồm: các luận thuyết
Weber mới về các giai cấp nhà ở, về giới quản lý đô thị, về cái gọi là XHH đô thị "phi không gian" hoặc sự phân chia ra cái gọi là "các khu
vực tiêu dùng" và một quan điểm
Mác-xít về đô thị như một không gian của
sự "tiêu dùng tập thể".
Những
quan điểm trên đã định hình nên một XHH
đô thị mới vào những năm 1970 với công trình nền tảng của Manuel Castell “The Urban
Question” (Vấn đề đô thị), đánh dấu một giai đoạn mới trong
lý luận và nghiên cứu đô thị. Những khái niệm
lý luận và thực nghiệm mới của Castell là rất đáng chú ý. Đặc biệt định nghĩa của ông, dựa trên quan điểm Mác-xít mới,
coi đô thị là "một không gian cho sự tiêu
dùng tập thể", hoặc những quan niệm về tầm quan trọng của các phong
trào xã hội ở đô thị; quan điểm mac-xít mới về
tính tự trị tương đối của
nhà nước.
Tuy
vậy, về sau Castell gần như đã rời bỏ quan điểm Mac-xít mới để chuyển sang quan điểm trung tính hơn về tác động của các phong trào xã hội đô thị.
Trong công trình ”The Information City“ (Thành phố Thông tin. 1989), ông luận giải rằng,
cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đánh dấu một giai đoạn mới trong nền sản
xuất
TBCN và những mô hình mới của phát triển đô thị và phát triển vùng. Công trình gần đây nhất của ông theo hướng tiếp cận này là cuốn sách "Information Society
and the Welfare State. The Finish model" (Xã hội Thông tin và
Nhà nước Phúc lợi. Mô hình Phần Lan) viết chung
với học giả người Phần Lan Pekka Hamanen (Oxford
University Ppress, 2002).
Các
phương hướng của XHH đô thị mới sau này đã mở rộng nghiên cứu về đô thị trên các chủ đề đa dạng như kinh tế
học chính trị của sự phát triển đô thị và vùng,
chính trị học đô thị, các phong trào xã hội ở đô thị, quan hệ giữa không gian và cơ cấu xã hội. Một số tài liệu cũng giới thiệu các quan điểm XHH chung
hơn như phân tầng xã hội,
hành động xã hội, sự phân
phối quyền lực,…
Tuy nhiên,
cho đến nay, không một phương hướng lý luận nào sau này có thể sánh được với trường phái Chicago
về mức độ ảnh hưởng tới xã hội học
đô thị.
Trong
quá trình phân định về mặt lý thuyết cho môn XHH đô thị, các nghiên cứu XHH đô thị ứng dụng, thực nghiệm đã và đang có những đóng góp căn bản cho XHH nói chung cũng như cho các môn
khoa học xã hội
khác.
Nét nổi bật của nó là khả năng thâm nhập và tìm hiểu các
khía cạnh đa dạng của đời sống đô
thị, với kho tàng phong phú các nghiên cứu thực nghiệm, từi nhiều quan điểm, cách tiếp cận của các trường
phái khác nhau, Nhiều kết quả trong việc phát
triển hệ phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu và sử dụng các công cụ xử lý thông tin định lượng, thống kê học
đã được sử dụng.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn thiếu vắng
những lý luận hoàn chỉnh, vững chắc
hoặc một lý thuyết tổng thể về xã hội học đô thị. Một tấm khảm sặc sỡ các nghiên cứu đơn lẻ, cho dù nó rộng lớn và
đa dạng đến đâu, cũng chưa thể cho chúng
ta hiểu đầy đủ về đô thị như một chỉnh thể. Sự phát triển của XHH đô thị về mặt lý
thuyết vẫn là một chủ đề mở và cần có
những phát triển bổ sung tiếp
theo.
3. ĐÔ THỊ VÀ
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH ĐÔ THỊ
3.1. Các định nghĩa về đô thị
Đô thị có ở khắp mọi nơi, song lại không có sự
thống nhất giữa các quốc gia về
cách hiểu thế nào là một đô thị. Ở Mỹ, một đô thị là bất kỳ cộng đồng nào có số dân từ 2.500 người trở lên; còn một “vùng
đô thị hoá” là một đô thị với số dân không
dưới 50.000 người. Ở Nam Phi, được coi là đô thị tuỳ thuộc vào chủng tộc dân cư. Còn ở Brazil thì quy mô dân số
không quan tang mà chỉ có thủ đô mới là đô thị.
Có thể định nghĩa đô thị khi dựa trên quy mô dân số, hay
dựa trên các chức năng khác
của chúng.
Định nghĩa xã hội học về đô
thị dựa trên cấu trúc xã hội và chức năng mà
nó đảm nhận. Các nhà xã hội học không quan tâm đến số dân tối thiểu hay
sự thừa nhận chính thức của đô thị
về mặt tổ chức. Xã hội học định nghĩa các đô thị như là những hình thức tổ chức xã hội có xuất xứ địa lý và mang những
đặc trưng nhất định.
· Thứ nhất, có số đân
tương đối đông, mật độ dân số cao và không thuần nhất (Wirth 1938);
· Thứ hai, ít nhất
có một bộ phận dân cư làm các công việc phi nông nghiệp và có một số chuyên gia (một số nhà KHXH còn
yêu cầu phải có sự hiện diện của ngôn
ngữ viết - Sjoberg 1965);
· Thứ ba, theo Max
Weber, một đô thị phải đảm nhận những chức năng thị trường và ít nhất
phải có một phần quyền lực quản lý
điều hành (Weber
1958);
· Thứ tư, các đô thị thể
hiện những hình thức
tương tác, trong đó một
cá nhân
được biết đến không phải như là
một nhân cách đầy đủ, mà là với
các vai trò mà họ đảm nhận.
· Thứ năm, các đô
thị đòi hỏi sự “gắn kết xã hội” rộng hơn là gia đình, dòng họ, hay bộ
tộc, mà dựa trên luật lệ hợp lý.
Tuy chưa phải là một định nghĩa đầy đủ, song nhìn chung, định
nghĩa đô thị nói trên dựa trên sự
tổ chức, các chức năng và những
đặc trưng xã hội
của nó.
Định nghĩa
khác:
Đô thị là một kiến tạo lãnh thổ - xã hội, một
hình thức cư trú mang tính toàn vẹn lịch sử
của con người, được đặc trưng bởi các
dấu hiệu sau:
· là nơi tập hợp của
một số lượng lớn dân cư
trên một lãnh thổ hạn chế.
· đại bộ phận dân cư sống ở đây làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
(công nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ,...)
· là môi trường trực tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
xã hội và cá nhân.
· giữ
vai trò chủ đạo đối với các vùng nông thôn xung quanh và toàn xã hội nói chung.
Hai dấu hiệu đầu là định lượng, còn hai dấu hiệu sau là định tính. Mỗi quốc có thể có những
quy định riêng đối với các dấu hiệu này. Ở Việt Nam, theo quy định hiện
hành của TCTK, một điểm dân cư được coi là đô thị khi có
dân số từ 4.000 người trở lên, trong đó ít nhất 60% không làm nông nghiệp.
3.2 Hai nhóm yếu tố
cấu thành đô thị
Nhằm
phân biệt xã hội học đô thị với các bộ môn khoa học khác cũng lấy đô thị làm khách thể nghiên cứu, có một cách phân chia tương đối đơn giản về hai nhóm thành
tố cấu tạo nên một đô thị là:
1.
Các
thành tố không gian- vật chất. Đó là môi trường không gian-hình
thể (vật thể) do con người tạo ra, bao gồm không gian kiến trúc, quy hoạch, cảnh quan đô thị, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và
cả điều kiện khí hậu sinh thái tự nhiên.
2.
Các
thành tố tổ chức- xã hội. Đó là cộng đồng dân cư sinh sống
trên lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế luật lệ hiện hành tại đó.
Trên thực tế thì hai nhóm thành tố này không
thể tách rời nhau trong mối quan hệ giữa một bên là môi trường sống, điều kiện sống với một bên là những con người
hoạt động trong đó. Các môn khoa học nghiên cứu về đô thị đều xoay quanh
mục tiêu nghiên cứu và bảo đảm cho sự
vận hành và phát triển bình thường của các đô
thị, bảo đảm sự liên kết
tối ưu giữa hai thành tố cấu thành đô thị này.
Các khoa học như kiến trúc, quy hoạch đô thị, xây dựng
đô thị, sinh thái học đô thị thì quan
tâm trước hết đến việc tạo ra những bộ phận hay toàn bộ môi trường không gian vật chất - hình thể của đô
thị. Các yếu tố tổ chức - xã hội nếu được đề
cập đến chỉ là yếu tố hỗ trợ, bổ sung. Trong khi đó, Xã hội học đô thị lại chú ý trước hết tới yếu tố này - cộng đồng dân cư đô thị với những
đặc điểm kinh tế - xã hội của nó, sự thích ứng hay hoà nhập với môi
trường vật chất - hình thể của đô thị. Và vì thế, hai nhóm bộ môn khoa học này tất yếu phải có liên hệ với nhau dưới nhiều hình thức.
3.3. Vị trí
và vai trò của đô thị trong lịch sử:
Lịch
sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng: các đô thị lớn thường đóng vai trò là các trung tâm kinh
tế, chính trị, thương mại, văn hoá của xã hội,
là động lực của sự tiến bộ trong những giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt là trong những thời kỳ chuyển biến
mang tính cách mạng.
Các nền văn minh từ cổ đại, trung đại đến hiện đại đều mang dấu ấn là những
nền văn minh đô thị rõ
nét. Hy Lạp và La Mã cổ đại là những bằng chứng rõ nhất về những
nền văn minh đô thị với các thành bang (polis)
rất phồn thịnh, với nhiều thể chế và luật
lệ tiến bộ.
Cũng
trong lịch sử, các đô thị luôn giữ vai trò là đầu tàu, dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi theo mình trên con đường
tiến bộ và văn minh. Quá trình phát triển
đô thị cũng thường là quá trình phát triển, đưa ánh sáng văn minh của xã hội hiện đại đến các vùng nông thôn, xa xôi
hẻo lánh, nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức của người dân ở đây.
Chúng
ta đang sống trong một thế giới đô thị hoá. Theo thông báo của Liên Hợp quốc, năm 2007, dân số đô thị trong tổng số hơn 6 tỷ người của trái đất đã vượt qua tỷ lệ 50%. Có nghĩa là nhân loại
đang và sẽ sống trong một thế giới đô thị hơn
là một thế giới nông thôn cổ truyền. Điều đó tự nó nói lên ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tăng cường hiểu biết của chúng ta về đời sống đô thị từ nhiều phương
diện, trong đó có góc nhìn
của xã hội học đô thị và đóng góp của nó cho chính quá trình phát triển đô thị
và phát triển xã hội nói chung hiện nay.